Từ năm 1858, nghĩa là từ ngày Ðức Mẹ hiện ra với Bernadette cho đến nay, suốt thời gian trên một thế kỷ, có khoảng 6,000 người tự cho mình được ơn lành bệnh và 3,500 vụ được coi là đặc biệt do Ủy Ban Y Khoa Lộ Ðức gồm tất cả các bác sĩ hiện diện kiểm chứng và nhìn nhận. Trong số này, tính đến ngày 9 tháng 2 năm 1999, chỉ có 66 trường hợp lành bệnh đã được Giáo Hội chính thức thừa nhận.
Từ năm 1858, nghĩa là từ ngày Ðức Mẹ hiện ra với Bernadette cho đến nay, suốt thời gian trên một thế kỷ, có khoảng 6,000 người tự cho mình được ơn lành bệnh và 3,500 vụ được coi là đặc biệt do Ủy Ban Y Khoa Lộ Ðức gồm tất cả các bác sĩ hiện diện kiểm chứng và nhìn nhận. Trong số này, tính đến ngày 9 tháng 2 năm 1999, chỉ có 66 trường hợp lành bệnh đã được Giáo Hội chính thức thừa nhận.
Chúng ta biết có một nghiêm luật được triệt để thi hành xung quanh vấn đề là những cơn bệnh cơ năng đều bị loại bỏ, nghĩa là những chứng bệnh phát xuất do sự xáo trộn các cơ năng, hôm nay thế này ngày mai có thể thế khác, không được xét đến, như các bệnh thần kinh, ung thư, dị ứng v.v... Chỉ có các cơn bệnh hoàn toàn về cơ thể rõ rệt mới được nhìn nhận và thẩm xét. Vì thế, một số lớn các hồ sơ bị loại. Trong thời gian 3 năm (từ 1990 đến 1993) chỉ có 5 hồ sơ được chấp nhận và thẩm xét. Các nhà chuyên viên để ra nhiều năm để khám nghiệm, để tái khám, để giám định lại theo những phương thức tối tân của khoa học, hầu đi đến các câu trả lời sau đây: Chứng bệnh có thật sự nan y không? Bệnh nhân được lành hẳn và vĩnh viễn không? Hay chỉ là một cơn đột biến tình cảm.
Sau khi những vấn nạn trên được trả lời thỏa đáng thì bác sĩ Pilon, giám đốc Ủy Ban Y Khoa Lộ Ðức từ mấy năm nay, làm bản phúc trình cho Ủy Ban Y Khoa Quốc Tế gồm 40 vị cự phách trong y giới thuộc nhiều quốc gia, mỗi năm họp một lần ở Paris dưới quyền đồng chủ tọa của Giám Mục Lộ Ðức và vị Chủ Tịch Ủy Ban Y Khoa Quốc Tế. Ở đây, hồ sơ lại được mở ra, các vấn nạn lại được thẩm xét, các cuộc khám nghiệm mới bị đòi hỏi.
Cuối cùng, có rất ít hồ sơ lọt qua được cửa ải này. Và chỉ khi nào, khoa học nhận thức rằng không thể giải thích được theo y khoa thì giáo quyền mới chấp nhận hồ sơ. Trong thực tế, Giáo Luật dành cho vị Giám Mục nơi cư ngụ của người thụ hưởng quyền khai mở cuộc thẩm xét theo Giáo Luật. Lại phải chờ đợi nhiều năm trước khi cuộc lành bệnh được công nhận là phép lạ.
Ðành rằng các "Phép Lạ" không phải là những tín điều phải tin, nhưng các dữ kiện xảy ra được giáo quyền cứu xét một cách nghiêm chỉnh và hết mức theo những tiêu chuẩn Giáo Luật do Ðức Giáo Hoàng Benêdictô XIV ban hành năm 1734. Những tiêu chuẩn gắt gao này ngày nay một số thần học gia lại muốn duyệt xét lại. Vì thế, hội các bác sĩ Pháp tổ chức tại Lộ Ðức vào những ngày 21 đến 25 tháng 10 năm 1993 một Ðại Hội với chủ đề: "Lành Bệnh và Phép Lạ". Chắc chắn từ nay các tiêu chuẩn sẽ muôn vàn khó khăn hơn.
Những phép lạ được giáo hội chính thức thừa nhận
(1) Bà Catherine Latapie, sinh năm 1820, sống ở Loubajac, gần Lộ Ðức. Ðược chữa lành vào ngày 1 tháng 3 năm 1858. Ngày 18 tháng Giêng năm 1862 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Laurence, Giám Mục Tarbes.
(2) Ông Louis Bouriette, sinh năm 1804, sống ở Lộ Ðức. Ðược chữa lành vào tháng 3 năm 1858. Ngày 18 tháng Giêng năm 1862 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Laurence, Giám Mục Tarbes.
(3) Bà Blaisette Cazenave (Soupene), sinh năm 1808, sống ở Lô Ðức. Ðược chữa lành vào tháng 3 năm 1858. Ngày 18 tháng Giêng năm 1862 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Laurence, Giám Mục Tarbes.
(4) Ông Henri Busquet, sinh năm 1842, sống ở Nay, Atlantic Pyrenees. Ðược chữa lành vào cuối tháng 4 năm 1854. Ngày 18 tháng Giêng năm 1862 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Laurence, Giám Mục Tarbes.
(5) Cậu bé Justin Bouhort, sinh tại Lộ Ðức ngày 28 tháng 7 năm 1856, và sống ở Lộ Ðức. Ðược chữa lành vào đầu tháng 7 năm 1858. Ngày 18 tháng Giêng năm 1862 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Laurence, Giám Mục Tarbes.
(6) Bà Madeleine Rizan, sinh năm 1800, sống ở Nay, Atlantic Pyrenees. Ðược chữa lành ngày 17 tháng 10 năm 1858. Ngày 18 tháng Giêng năm 1862 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Laurence, Giám Mục Tarbes.
(7) Cô Marie Moreau, sinh năm 1841, sống ở Tartas, Landes. Ðược chữa lành ngày 9 tháng 11 năm 1858. Ngày 18 tháng Giêng năm 1862 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Laurence, Giám Mục Tarbes.
(8) Ông Pierre de Rudder, sinh tại Jabbeker, Bỉ. Ðược chữa lành ngày 7 tháng 4 năm 1875. Ngày 25 tháng 7 năm 1908 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Gustave Waffelaert, Giám Mục Bruges.
(9) Cô Joachime Dehant, sinh tại Velaines, Sambre, năm 1849, sống ở Gesves, Bỉ. Ðược chữa lành ngày 13 tháng 9 năm 1878. Ngày 25 tháng 4 năm 1908 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Thomas Louis Heylen, Giám Mục Namur.
(10) Cô Elisa Seisson, sinh năm 1855. Ðược chữa lành ngày 29 tháng 8 năm 1882. Ngày 12 tháng 7 năm 1912 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Francois Bonnefoy, Giám Mục Aix, Arles và Embrun.
(11) Nữ Tu Eugenia (Marie Mabille), sinh năm 1855. Ðược chữa lành ngày 21 tháng 8 năm 1883. Ngày 30 tháng 8 năm 1908 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Philippe Meunier, Giám Mục Evreux.
(12) Nữ Tu Julienne (Aline Bruyere), sinh năm 1864, sống ở làng La Roque, gần Sarlat. Ðược chữa lành ngày 1 tháng 9 năm 1889. Ngày 7 tháng 3 năm 1912 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Albert Negre, Giám Mục Tulle.
(13) Nữ Tu Josephine Marie (Anne Jourdain), sinh ngày 5 tháng 8 năm 1854 tại Le Havre. Ðược chữa lành ngày 21 tháng 8 năm 1890. Ngày 10 tháng 10 năm 1908 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Marie Jean Douais, Giám Mục Beauvais.
(14) Cô Amélie Chagnon, sinh ngày 17 tháng 9 năm 1874, sống ở Ðịa Phận Tournai, Bỉ. Ðược chữa lành ngày 21 tháng 8 năm 1891. Ngày 8 tháng 9 năm 1910 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Charles G. Walravens, Giám Mục Tournai.
(15) Cô Clémentine Trouvé, sinh tại Azay le Boulé, năm 1878. Ðược chữa lành ngày 21 tháng 8 năm 1891. Ngày 6 tháng 6 năm 1908 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Amette, Tổng Giám Mục Paris.
(16 và 17) Cô Marie Lebranchu, sinh năm 1857, và cô Marie Lemarchand, sinh năm 1874. Ðược chữa lành ngày 20 và 21 tháng 8 năm 1892. Ngày 6 tháng 6 năm 1908 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Amette, Tổng Giám Mục Paris.
(18) Cô Elisa Lesage, sinh tại Bucquoy (Pas de Calais), năm 1874. Ðược chữa lành ngày 21 tháng 8 năm 1892. Ngày 4 tháng 2 năm 1908 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Alfred Williez, Giám Mục Arras.
(19) Nữ Tu Marie of the Presentation (Sylvanie Delporte), sinh ngày 8 tháng 2 năm 1848. Ðược chữa lành ngày 29 tháng 8 năm 1892. Ngày 15 tháng 8 năm 1908 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Francois Delamaire, Giám Mục phó Cambrai.
(20) Linh Mục Cirette, sinh tại Poses (Eure), ngày 15 tháng 3 năm 1847. Ðược chữa lành ngày 31 tháng 8 năm 1893. Ngày11 tháng 2 năm 1907 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Meunier, Giám Mục Evreux.
(21) Cô Aurélie Huprelle, sinh năm 1869. Ðược chữa lành ngày 21 tháng 8 năm 1895. Ngày 1 tháng 5 năm 1908 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Jean Douais, Giám Mục Beauvais.
(22) Cô Esther Brachmann, sinh tại Paris, năm 1881. Ðược chữa lành ngày 21 tháng 8 năm 1896. Ngày 6 tháng 6 năm 1908 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Léon Amette, Tổng Giám Mục Paris.
(23) Cô Jeane Tulasne, sinh tại Indre et Loire, ngày 8 tháng 9 năm 1877. Ðựợc chữa lành ngày 8 tháng 9 năm 1907. Ngày 27 tháng 10 năm 1907 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Réné Francois Renou, Tổng Giám Mục Tours.
(24) Cô Clémentine Malot, sinh tại Granvilliers, ngày 22 tháng 11 năm 1872. Ðược chữa lành ngày 21 tháng 8 năm 1898. Ngày 1 tháng 11 năm 1908 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Jean Douais, Giám Mục Beauvais.
(25) Bà Rose Francois (Labreuvois), sinh năm 1863. Ðược chữa lành ngày 20 tháng 8 năm 1899. Ngày 6 tháng 6 năm 1908 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Jean Amette, Tổng Giám Mục Paris.
(26) Linh Mục Salvator Capuchin, sinh năm 1862, sống ở Dinard. Ðược chữa lành ngày 25 tháng 6 năm 1900. Ngày 1 tháng 7 năm 1908 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha A. Dubourg, Tổng Giám Mục Rennes.
(27) Nữ Tu Maximilien, sinh năm 1858, sống ở Marseilles (Tu Viện Nữ Tu Hy Vọng). Ðược chữa lành ngày 20 tháng 5 năm 1901. Ngày 5 tháng 2 năm 1908 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Paulin Andrieu, Giám Mục Marseilles.
(28) Cô Marie Savoye, sinh năm 1877, sống ở Cateau-Cambresis (Bắc). Ðược chữa lành ngày 20 tháng 9 năm 1901. Ngày 15 tháng 8 năm 1908 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Francois Delamaire, Giám Mục phó Cambrai.
(29) Bà Johanna Bezenac (Dubos), sinh năm 1876. Ðược chữa lành ngày 8 tháng 8 năm 1904. Ngày 2 tháng 7 năm 1908 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Henri J. Bougoin, Giám Mục Périgueux.
(30) Nữ Tu Saint Hilaire, sinh năm 1865, Bề Trên Tu Viện Peyreleau (Dòng Thánh Giuse Clairvaux). Ðược chữa lành ngày 20 tháng 8 năm 1904. Ngày 10 tháng 5 năm 1908 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Charles de Ligonnes, Giám Mục Rodez.
(31) Nữ Tu Saint Béatrix (Rosalie Vildier), sinh năm 1862, sống ở Evreux. Ðược chữa lành ngày 31 tháng 8 năm 1904. Ngày 25 tháng 3 năm 1908 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Philippe Meunier, Giám Mục Evreux.
(32) Cô Marie Thérèse Noblet, sinh năm 1889, sống ở Rheims. Ðược chữa lành ngày 31 tháng 8 năm 1905. Ngày 11 tháng 2 năm 1908 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Hồng Y Lucon, Tổng Giám Mục Rheims.
(33) Cô Cécile Douville de Franssu, sinh tại Tournai, Bỉ, ngày 26 tháng 12 năm 1885. Ðược chữa lành ngày 21 tháng 9 năm 1905. Ngày 8 tháng 12 năm 1909 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Charles Gibier, Giám Mục Versailles.
(34) Cô Antoina Moulin, sinh tại Vinne (Isere), ngày 13 tháng 4 năm 1877. Ðược chữa lành ngày 10 tháng 8 năm 1907. Ngày 6 tháng 11 năm 1911 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Paul E. henry, Giám Mục Grenoble.
(35) Cô Marie Borel, sinh tại Lozere, ngày 14 tháng 11 năm 1879. Ðược chữa lành ngày 21 và 22 tháng 8 năm 1907. Ngày 4 tháng 6 năm 1911 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Jacques Gely, Giám Mục Mende.
(36) Cô Virginie Haudebourg, sinh tại Lons le Saulnier, Pháp, năm 1886. Ðược chữa lành ngày 17 tháng 5 năm 1908. Ngày 25 tháng 11 năm 1912 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Francois A. Mallet, Giám Mục Saint Claude.
(37) Bà Marie Biré (Lucas), sinh tại Vendée (Pháp), ngày 8 tháng 10 năm 1866. Ðược chữa lành ngày 5 tháng 8 năm 1908. Ngày 30 tháng 7 năm 1910 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Clovis Joseph Catteau, Giám Mục Lucon.
(38) Cô Aimée, sinh năm 1872, sống ở Vern, gần Angers. Ðược chữa lành ngày 28 tháng 5 năm 1810. Ngày 5 tháng 8 năm 1910 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Joseph Rumeau, Giám Mục Angers.
(39) Cô Juliette Orion, sinh năm 1886, sống ở St. Hilaire de Voust, Véndée. Ðược chữa lành ngày 22 tháng 7 năm 1910. Ngày 18 tháng 10 năm 1913 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Clovis Joseph Catteau, Giám Mục Lucon.
(40) Bà Marie Fabre, sinh năm 1879. Ðược chữa lành ngày 26 tháng 11 năm 1911. Ngày 8 tháng 9 năm 1912 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Pierre Cezerac, Giám Mục Cahors.
(41) Cô Henriette Bressolles, sinh năm 1896. Ðược chữa lành ngày 3 tháng 7 năm 1924. Ngày 4 tháng 6 năm 1957 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Paul Remond, Giám Mục Nice.
(42) Cô Lydia Brosse, sinh ngày 14 tháng 10 năm 1889. Ðược chữa lành ngày 11 tháng 10 năm 1930. Ngày 5 tháng 8 năm 1958 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Jean Guyot, Giám Mục Contances.
(43) Nữ Tu Marie Marguerite (Francois Captitaine), sinh ngày 13 tháng 4 năm 1872, sống ở Ðan Viện Rennes từ năm 1896. Ðược chữa lành ngày 22 tháng Giêng năm 1937. Ngày 20 tháng 5 năm 1946 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Hồng Y Clément Roques, Tổng Giám Mục Rennes.
(44) Cô Louise Jamain, sinh tại Paris, ngày 5 tháng 11 năm 1914. Ðược chữa lành ngày 1 tháng 4 năm 1937. Ngày 14 tháng 12 năm 1951 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Maurice Feltin, Tổng Giám Mục Paris.
(45) Cậu bé Francis Pascal, sinh ngày 2 tháng 10 năm 1934, sống ở Beaucaire, Gard. Ðược chữa lành ngày 31 tháng 8 năm 1938. Ngày 31 tháng 5 năm 1949 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Ch. de Provenchères, Tổng Giám Mục Aix en Provence.
(46) Cô Gabrielle Clauzel, sinh ngày 15 tháng 8 năm 1894, sống ở Oran. Ðược chữa lành ngày 15 tháng 8 năm 1943. Ngày 18 tháng 3 năm 1948 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Bertrand Lacaste, Giám Mục Oran.
(47) Cô Yvonne Fournier, sinh tháng Giêng năm 1923. Ðược chữa lành ngày 19 tháng 8 năm 1945. Ngày 14 tháng 11 năm 1959 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Hồng Y Maurice Feltin, Tổng Giám Mục Paris.
(48) Bà Rose Martin (Pérona), sinh ngày 28 tháng 3 năm 1901. Ðược chữa lành ngày 3 tháng 7 năm 1947. Ngày 5 tháng 5 năm 1949 được chính thức công bố là Phép Lạ, và ngày 17 tháng 3 năm 1958 được tái xác nhận là Phép Lạ bởi Ðức Cha Rémond, Giám Mục Nice.
(49) Bà Jeanne Gestas, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1897, sống ở Bègles, Gironde. Ðược chữa lành ngày 22 tháng 8 năm 1947. Ngày13 tháng 7 năm 1952 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Paul Richaud, Tổng Giám Mục Bordeaux.
(50) Cô Marie Therese Canin, sinh năm 1910. Ðược chữa lành ngày 9 tháng 10 năm 1947. Ngày 6 tháng 6 năm 1952 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Jean Delay, Giám Mục Marseilles.
(51) Cô Mađalena Carini, sinh tại Pavia, ngày 11 tháng 3 năm 1917. Ðược chữa lành ngày 15 tháng 8 năm 1948. Ngày 2 tháng 6 năm 1960 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Hồng Y G. B. Montini, Tổng Giám Mục Milan.
(52) Cô Jeanne Frétel, sinh ngày 25 tháng 5 năm 1914. Ðược chữa lành ngày 8 tháng 10 năm 1948. Ngày 20 tháng 10 năm 1950 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Hồng Y Clément Roques, Tổng Giám Mục Rennes.
(53) Nữ Tu Marie Mercédès (Théa Angele), sinh tại Ðức, ngày 24 tháng 9 năm 1921. Ðược chữa lành ngày 20 tháng 5 năm 1950. Ngày 28 tháng 6 năm 1961 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha P.M. Théas, Giám Mục Tarbes và Lô Ðức.
(54) Ông Evasio Ganora, sinh ngày 2 tháng 3 năm 1913, sống ở Casale Monferrato. Ðược chữa lành ngày 2 tháng 6 năm 1955. Ngày 31 tháng 5 năm 1955 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha G. Angrisani, Giám Mục Casale Monferrato.
(55) Cô Edeltraud Fulda, sinh ngày 20 tháng 7 năm 1916. Ðược chữa lành ngày 12 tháng 8 năm 1950. Ngày 18 tháng 5 năm 1955 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Hồng Y Théodor Innitzer, Tổng Giám Mục Vienna.
(56) Ông Paul Pellegrin, sinh ngày 12 tháng 4 năm 1898. Ðược chữa lành ngày 3 tháng 10 năm 1950. Ngày 8 tháng 12 năm 1953 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Auguste Gaudel, Giám Mục Fréjus.
(57) Tu Sĩ Léo Schwager, sinh tại Thụy Sĩ, ngày 30 tháng 4 năm 1924. Ðược chữa lành ngày 30 tháng 4 năm 1952. Ngày 8 tháng 12 năm 1960 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Francois Charriere, Giám Mục Lausanne, Geneva và Fribourg.
(58) Bà Alice Couteault Gourdon), sinh ngày 1 tháng 12 năm 1917, sống ở Bouillé Loretz, Deux Sevres. Ðược chữa lành ngày 15 tháng 5 năm 1952. Ngày 16 tháng 7 năm 1956 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Henri Vion, Giám Mục phó Poitiers.
(59) Cô Marie Bigot, sinh ngày 7 tháng 12 năm 1922. Ðược chữa lành ngày 8 tháng 10 năm 1953 và ngày 8-10 tháng 10 năm 1954. Ngày 15 tháng 8 năm 1956 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Hồng Y Clément Roques, Tổng Giám Mục Rennes.
(60) Bà Ginette Nouvel (Fabre), sinh ngày 18 tháng 1 năm 1928, sống ở Carmaux, Tarn. Ðược chữa lành ngày 21 tháng 9 năm 1954. Ngày 31 tháng 5 năm 1963 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Claude Dupuy, Tổng Giám Mục Albi.
(61) Cô Elisa Aloi, sinh tại Patti, Sicily, ngày 26 tháng 11 năm 1931. Ðược chữa lành ngày 5 tháng 6 năm 1958. Ngày 26 tháng 5 năm 1965 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Francesco Fasola, Tổng Giám Mục Messine.
(62) Cô Juliette Tamburini, sinh tại Marseilles, ngày 4 tháng 12 năm 1936. Ðược chữa lành ngày 17 tháng 7 năm 1959. Ngày 11 tháng 5 năm 1965 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Marc Lallier, Giám Mục Marseilles.
(63) Anh Vittorio Micheli, sinh tại tỉnh Trento, Ý, ngày 6 tháng 2 năm 1940. Ðược chữa lành ngày 1 tháng 6 năm 1963. Ngày 26 tháng 5 năm 1976 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Alessandro Gottardi, Tổng Giám Mục Trento.
(64) Ông Serge Perrin, sinh ngày 13 tháng 2 năm 1929. Ðược chữa lành ngày 1 tháng 5 năm 1970. Ngày 17 tháng 6 năm 1978 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Jean Orchampt, Giám Mục Angers.
(65) Cô Delizia Cirolli, sinh ngày 17 tháng 11 năm 1964. Ðược chữa lành vào dịp gần Lễ Giáng Sinh năm 1976. Ngày 28 tháng 6 năm 1989 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Luigi Bonmarito, Tổng Giám Mục Catania.
(66) Ông Jean Pierre Bély, sinh ngày 24 tháng 8 năm 1936. Ðược chữa lành ngày 9 tháng 10 năm 1987. Ngày 9 tháng 2 năm 1999 được chính thức công bố là Phép Lạ bởi Ðức Cha Claude Dagens, Giám Mục Angoulême.
(67) Bà Anna Santaniello, sinh năm 1912, bị chứng bệnh tim khó thở từ nhỏ, đã được chữa lành bệnh trong một chuyến hành hương cầu nguyện ở Lộ Ðức vào ngày 19 tháng 8 năm 1952. Ðức Tổng Giám Mục Salerno Gerardo Pierro đã công bố phán quyết của Giáo Hội về việc chính thức thừa nhận phép lạ này trước sự hiện diện của bà Santaniello trong thánh lễ Chúa Nhật ngày 13/11/2005.
(68) Nữ tu Luigina Traverso, sinh năm 1934, dòng Con Ðức Bà Phù Hộ (FMA), được khỏi bệnh tại Lộ Ðức ngày 23 tháng 7 năm 1965. Ngày 27 tháng 7 năm 1965, giáo sư bác sĩ Claudio Rinaldi chứng thực: tình trạng sức khỏe tổng quát của chị là tốt, không còn đau đớn, các bắp cơ không còn co thắt và cứng nữa. Ðôi chân hoàn toàn cử động.
(69) Bà Danila Castelli, sinh ngày 16 tháng 01 năm 1946 bị bệnh biến chứng tăng huyết áp. Từ năm 1982, các hình chụp siêu âm cho thấy bà bị khối u tạo ra hóc môn catécholamine trong niệu sinh dục. Bà đã chịu nhiều phẫu thuật nhưng không đều có kết quả. Tháng 5 năm 1989, nhân chuyến hành hương tại Lộ Ðức, bà tắm nước suối Lộ Ðức và được khỏi bệnh. Hiện nay, bà đã hoạt động bình thường.
(*) Ông Jacquew Salaun, sinh năm 1935, sống ở La Loupe, Chartres, Pháp. Ðược chữa lành ngày 1 tháng 9 năm 1993. Sự kiện được chữa lành này đang chờ sự phán quyết tối hậu của Giáo Hội.
(Linh Mục Joseph Trương, Chuyển dịch từ Nguyệt San Lourdes, số 49, tháng 5 năm 1997,
và từ tác phẩm Lourdes Miraculous Cure của Bác Sĩ Theodore Mangiapan, Chủ Tịch Ủy Ban Y Khoa Quốc Tế).
0nhận xét:
Đăng nhận xét